Không ai có thể hoài nghi mục đích đúng đắn và hiệu quả nâng cao chất lượng dạy - học của các cuộc vận động mà ngành giáo dục đã đề ra. Nhưng với sự kiện hơn trăm ngàn trẻ em trong độ tuổi đi học rời ghế nhà trường thì có nên xem lại các vấn đề về công tác quản lý, mục tiêu xã hội hoá giáo dục cũng như trách nhiệm của gia đình, xã hội và chính quyền các địa phương đối với việc thực hiện luật Giáo dục.
Số học sinh bỏ học ở bậc tiểu học và Trung học trong 5 năm gần đây được Bộ Giáo dục - Đào tạo thống kê như sau:
Bậc học/ Năm | Tổng số học sinh | Số em bỏ học | Tỷ lệ (%) |
Tiểu học | |||
2003 - 2004 | 8.350.191 | 261.405 | 3,13 |
2004 - 2005 | 7.773.484 | 174.700 | 2,25 |
2005 - 2006 | 7.318.313 | 244.065 | 3,33 |
2006 - 2007 | 7.041.312 | 214.171 | 3,04 |
2007 - 2008 | 6.989.383 | 12.966 | 0,19 |
Trung học | |||
2003 - 2004 | 9.228.306 | 580.511 | 6,29 |
2004 - 2005 | 9.472.815 | 679.485 | 7,59 |
2005 - 2006 | 9.474.861 | 625.157 | 6,59 |
2006 - 2007 | 9.010.751 | 186.600 | 2,07 |
2007 - 2008 | 8.854.214 | 106.228 | 1,20 |
Số học sinh trung học bỏ học của học kỳ 1 năm học 2007-2008 với năm học 2003-2004 đã giảm đáng kể (từ 6,29% xuống còn 1,2%). Trung bình trong ba năm thống kê liên tiếp (từ năm học 2003 -2004 đến 2005-2006) năm nào, số bỏ học cũng chiếm trên nửa triệu. Phần lớn số học sinh này đều tập trung ở những vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, miền núi khó khăn. Để giải quyêt tình trạng này, các địa phương đang cố gắng để vận động học sinh trở lại trường học tập nhưng đây là vấn đề gay gắt cần có sự chỉ đạo thống nhất của Bộ, có giải pháp tích cực, hiệu quả hơn. Đồng thời, cần có chính sách động viên, tạo nguồn kinh phí bồi dưỡng cho giáo viên phụ đạo, kèm cặp số học sinh yếu kém để các em theo kịp chương trình bởi trên thực tế, nhiều địa phương đang lúng túng trong việc triển khai hoạt động này. Ngân sách đầu tư cho giáo dục trong những năm qua đã tăng đáng kể, cụ thể số liệu chi ngân sách nhà nước cho giáo dục 2000-2007
Tỷ đồng | ||||||||
2000 | 2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 2006 | 2007 | |
Tổng số | 15609 | 20624 | 22795 | 32730 | 41630 | 55300 | 66770 | |
Chi cho xây dựng cơ bản | 2360 | 3008 | 3200 | 4900 | 6623 | 9705 | 11530 | |
Chi thường xuyên cho giáo dục và đào tạo | 10356 | 12649 | 16906 | 18625 | 27830 | 35007 | 45595 | 55240 |
Kinh phí CTMT giáo dục và đào tạo | 600 | 600 | 710 | 970 | 1250 | 1770 | 2970 | 3380 |
Chia ra | ||||||||
* Giáo dục | 415 | 495 | 725 | 925 | 1305 | 2328 | 2333 | |
Dạy nghề | 90 | 110 | 130 | 200 | 340 | 500 | 700 | |
Trung học chuyên nghiệp | 20 | 25 | 30 | 35 | 35 | 37 | 50 | |
Đại học và cao đẳng | 75 | 80 | 85 | 90 | 90 | 105 | 297 |
Vừa qua, Thủ tướng đã ký chương trình kiên cố hóa trường lớp từ nay đến 2012 với tổng đầu tư là 1.500 tỷ đồng. Theo đó, khi Nhà nước đầu tư về trường, các tỉnh sẽ có kinh phí dành cho thiết bị dạy học, tập huấn, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên....
Ngoài ra, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã cho phép các địa phương điều chỉnh kế hoạch năm học phù hợp với tình hình thực tế để tạo điều kiện nâng cao chất lượng dạy và học.
Không ai có thể hoài nghi mục đích đúng đắn và hiệu quả nâng cao chất lượng dạy - học của các cuộc vận động mà ngành giáo dục đã đề ra. Nhưng với sự kiện hơn trăm ngàn trẻ em trong độ tuổi đi học rời ghế nhà trường thì có nên xem lại các vấn đề về công tác quản lý, mục tiêu xã hội hoá giáo dục cũng như trách nhiệm của gia đình, xã hội và chính quyền các địa phương đối với việc thực hiện luật Giáo dục. Mục tiêu phổ cập giáo dục THCS vào năm 2010 mà Quốc hội đã đề ra liệu có khả thi?
Tác giả bài viết: Kim Liên
Nguồn tin: Tổng cục thống kê
Ý kiến bạn đọc